Thursday, February 10, 2005

Việt Nam sẽ trông vào năng lượng tái tạo?

VNECONOMY cập nhật: 10/11/2004



Theo dự thảo "Chính sách năng lượng quốc gia" do Bộ Công nghiệp vừa hoàn thành để trình Chính phủ phê duyệt, tỷ trọng năng lượng tiêu thụ của ngành công nghiệp sẽ tăng 24% vào năm 2020 và 42% vào năm 2050, trong đó điện sẽ tăng từ 21% năm 2003 lên 34% vào năm 2020, than giảm từ 51% xuống còn 26% và khí đốt sẽ chiếm khoảng 10% trong giai đoạn 2010- 2020.

Từ các số liệu trên, dễ dàng nhận thấy rằng năng lượng của ta hiện đang dựa vào ba nguồn cung cấp chính là điện, than và dầu khí. Còn trong lĩnh vực sản xuất điện, hiện cũng đang hình thành thế chân vạc với ba nguồn chính là thủy điện (chiếm 41%), nhiệt điện dùng khí (gần 40%) và nhiệt điện dùng than (chiếm khoảng 17-18%).

Các nguồn năng lượng khác, trong đó có cả năng lượng tái tạo, chiếm một tỷ trọng không đáng kể, hay nói theo cách khác thì chỉ là một "chấm nhỏ" trong bức tranh toàn cảnh năng lượng Việt Nam.


Nguy cơ tiềm ẩn của an ninh năng lượng

Theo Bộ trưởng Công nghiệp Hoàng Trung Hải, phải mất khoảng 30 năm nữa Việt Nam mới có thể hình thành một thị trường điện thực sự và còn rất nhiều thách thức trước mắt phải vượt qua. Một trong những thách thức đó chính là tính ổn định và bền vững của các nguồn năng lượng.


Sự nóng lên của trái đất, tình trạng ô nhiễm, việc chặt phá rừng... được coi là những nguyên nhân gây nên sự thay đổi bất thường về khí hậu trong thời gian gần đây. Điều này chắc chắn sẽ tác động không nhỏ đến lưu lượng nước ở các sông, đồng nghĩa với việc nguồn thủy năng sẽ có thể không ổn định và đúng như trong dự báo.


Trong một vài năm gần đây, nhiều nhà máy thủy điện lớn đã phải hoạt động cầm chừng trong mùa khô, do lượng nước trong hồ đã hạ xuống gần hoặc dưới mức chết, là một minh chứng cho hiện tượng này.

Trong thời gian tới, tình hình còn có thể nghiêm trọng hơn do để giải quyết vấn đề môi trường cần có thời gian, tiền bạc, công nghệ và nhất là một giải pháp đồng bộ với sự hợp tác, nỗ lực không chỉ một quốc gia.


Chính vì thế, cho dù "trong khoảng 20 năm tới sẽ xây dựng hầu hết các nhà máy thủy điện tại những nơi có khả năng xây dựng" như đã đề cập trong "Chiến lược phát triển ngành điện Việt Nam giai đoạn 2004-2010, định hướng đến 2020" vừa được Chính phủ phê duyệt, thì mục tiêu đạt tổng công suất các nhà máy thủy điện khoảng 13.000 - 15.000 MW có thể vẫn nằm ngoài tầm với".


Than và khí hiện đang chiếm hơn một nửa nguồn cung cấp điện. Tuy nhiên, đây cũng không phải là nguồn tài nguyên ổn định và vô tận. Nguồn khí từ Nam Côn Sơn, hiện đang là nguồn cung cấp chính cho tổ hợp nhà máy điện Phú Mỹ và cụm khí - điện - đạm Cà Mau trong tương lai, cũng chỉ khai thác được trong gần 20 năm nữa. Các mỏ khí khác mới được phát hiện ở Bạch Hổ và khu vực Tây Nam hiện mới đang ở trong giai đoạn chuẩn bị đưa vào khai thác.

Chính vì lý do đó mà con số dự báo đưa ra trong Chiến lược phát triển ngành điện "sẽ xây dựng thêm từ 3.500MW đến 7.000MW trong giai đoạn 2011 - 2020 phụ thuộc vào nguồn khí phát hiện được".

Theo các số liệu thăm dò, trữ lượng than của Việt Nam hiện có khoảng trên 2 tỷ tấn than Anthracite, có thể đủ để khai thác hàng trăm năm nữa. Tuy nhiên, chi phí đầu vào hiện ngày càng tăng cao do phải khai thác xuống sâu, chưa kể đến cái giá phải trả cho việc tàn phá môi trường. Dù chúng ta có nỗ lực đến đâu thì cũng chỉ có thể giảm thiểu ảnh hưởng của nó chứ không thể giải quyết trọn vẹn được bài toán bảo vệ môi trường.

Ngành điện cũng đã có kế hoạch xây dựng nhà máy điện nguyên tử, hiện đang gây nhiều tranh cãi, và nhập khẩu điện. Tuy nhiên, các biện pháp này cũng chưa thể giải quyết dứt điểm được vấn đề thiếu điện trong tương lai.




Năng lượng tái tạo - thực trạng và tiềm năng

Trong Chiến lược phát triển ngành điện, vấn đề phát triển năng lượng tái tạo cũng chỉ được nhắc đến với m y dòng ngắn gọn là "Đẩy mạnh nghiên cứu phát triển các dạng năng lượng mới và tái tạo để đáp ứng nhu cầu sử dụng điện, đặc biệt đối với các hải đảo, vùng sâu, vùng xa".


Vậy phải chăng năng lượng tái tạo tại Việt Nam không có tiềm năng? Xin được liệt kê sơ bộ một số nguồn năng lượng tái tạo hiện có tại Việt Nam như sau:

Thủy điện nhỏ là dạng trạm thủy điện có công suất từ 200 W đến 10.000 KW. Với một hệ thống sông suối nhỏ dày đặc, Việt Nam thực sự rất có tiềm năng về dạng năng lượng này.

Hiện nay đã có khoảng 120.000 trạm thủy điện nhỏ, chủ yếu do tư nhân đầu tư, với tổng công suất ước tính khoảng 20MW, cung cấp 65 - 120 triệu kWh điện hàng năm cho hơn 130.000 hộ gia đình ở các khu vực miền núi và vùng cao tại Việt Nam.


Việt Nam hiện có khoảng 200 nguồn nước nóng tập trung chủ yếu ở khu vực cao nguyên miền Trung, bờ biển miền Trung và vùng núi từ Quảng Bình tới Khánh Hòa. Với nhiệt độ từ 40 đến 150 độ C, các nguồn nước nóng này được coi là có đủ điều kiện để xây dựng các trạm phát điện từ nguồn địa nhiệt.


Xay xát lúa gạo và ngành mía đường cũng có nhiều tiềm năng để sản xuất điện. Theo ước tính, hiện nay cả nước có hơn 100.000 nhà máy xay xát lúa gạo tập trung chủ yếu ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, nơi có khoảng 50 nhà máy xay xát với công suất hơn 5 tấn/giờ. Mỗi nhà máy này có thể cung cấp vỏ trấu cho một trạm phát điện công suất từ 500KW trở lên và tổng công suất của các nhà máy nhiệt chạy bằng vỏ trấu có thể đạt tới 70MW.

Cũng theo những số liệu khảo sát ban đầu, số lượng bã mía do các nhà máy đường thải ra hiện nay có thể đủ để cung cấp cho các trạm phát điện với tổng công suất khoảng 250MW.


Khí sinh học (biogas) cũng có tiềm năng rất lớn ở khu vực châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long. Hiện nay đã có một số hộ gia đình ở khu vực này sử dụng biogas để nấu nướng, thắp sáng và chạy các động cơ công suất nhỏ.


Việt Nam có nguồn năng lượng mặt trời khá dồi dào, đặc biệt ở khu vực phía Nam. Mức độ bức xạ nhiệt ở khu vực này dao động từ khoảng 3-4,5 kWh/m2/ngày vào mùa đông, tới 4,5-6,5 kWh/m2/ngày vào mùa hè. Năng lượng mặt trời được coi là có tiềm năng lớn trong việc cung cấp điện cho những khu vực vùng sâu, vùng xa, nơi chưa có lưới điện quốc gia.

Theo con số thống kê chưa đầy đủ hiện có khoảng 3.000 hệ thống pin mặt trời, với công suất từ 500Wp đến 1.500Wp (Wp - số Wát tối đa mà một đơn vị pin mặt trời h p thụ được vào thời điểm buổi trưa của ngày nắng) đã được lắp đặt tại các bệnh viện, trường học, các trạm phát điện phục vụ cho đường dây cáp quang và các hộ gia đình. Phần lớn các trạm phát điện này nằm trong các dự án do các tổ chức quốc tế hỗ trợ (SELF, Quỹ Rockeffeler, tổ chức CASE của Australia, bang North Rhine Westphalia của Đức...).


Theo các số liệu khảo sát ban đầu, tiềm năng của năng lượng gió đo được tại các khu vực khác nhau của Việt Nam như sau: tại hải đảo là 860 - 1.410 kWh/m2/năm; khu vực duyên hải (Kỳ Anh, Cửa Tùng, Bình Định, Tuy Hòa, Cam Ranh, Vũng Tàu): 800 - 1.000 kWh/m2/năm; một số khu vực trong nội địa: 500 - 800 kWh/m2/năm.


Vừa qua đã có một trạm phát điện bằng năng lượng gió được xây dựng ở đảo Bạch Long Vĩ (từ nguồn ODA của Tây Ban Nha). Tại Bình Định hiện cũng đang tiến hành xây dựng một nhà máy điện chạy bằng sức gió. Dự kiến giai đoạn đầu của dự án sẽ hoàn thành vào cuối năm nay với công suất 15 MW. Giai đoạn hai của dự án sẽ nâng công suất lên 35 MW và giai đoạn ba là 50 MW. Đây được coi là dự án về điện chạy bằng sức gió lớn nhất tại Việt Nam hiện nay.


Như vậy có thể thấy năng lượng tái tạo ở Việt Nam thực sự có tiềm năng, tuy nhiên sự phát triển của lĩnh vực năng lượng tái tạo vẫn còn mang nặng tính tự phát, thiếu một quy hoạch tổng thể và chưa thực sự có vị trí tương xứng với tiềm năng của nó trong Chiến lược phát triển ngành điện.

Theo dự báo, thì đến năm 2050, tổng sản lượng điện gió toàn cầu sẽ tương đương với thủy điện và hiện nay Cộng đồng châu Âu cũng đã có kế hoạch nâng cao tỷ lệ năng lượng tái tạo lên 22% vào năm 2010. Trung Quốc hiện chiếm 50% tổng sản lượng thủy điện nhỏ của thế giới.


Ninh Kiều