Sunday, February 13, 2005

Rào cản nào với năng lượng xanh ở châu Á?


Giá dầu tăng mạnh và ô nhiễm môi trường đang làm các nước châu Á quan tâm hơn tới năng lượng xanh. Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng khu vực này sẽ không sớm thoát khỏi sự phụ thuộc vào dầu, than và khí tự nhiên.

Tương lai cho năng lượng xanh?

Vấn đề là chi phí cao của các dự án năng lượng tái sinh như năng lượng mặt trời, gió, địa nhiệt và nhiên liệu sinh học; thêm vào đó là thiếu sự thúc đẩy cũng như hỗ trợ của chính phủ, khiến cho nhiều doanh nghiệp tin rằng năng lượng xanh không khả thi hoặc đe doạ tới túi tiền của họ.

Samuel Tumiwa, chuyên gia năng lượng tái sinh tại Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) nói: ''Chúng tôi phải rất nỗ lực để thuyết phục các chính phủ nên tập trung vào năng lượng xanh. Có một số nhỏ các quan chức muốn phát triển loại năng lượng này, trong khi số còn lại thì không''.

Các nhóm bảo vệ môi trường như nhóm Hoà bình Xanh và các tổ chức tài chính như ADB nói rằng năng lượng tái sinh có ý nghĩa sống còn đối với các nền kinh tế châu Á. Năng lượng tái sinh giúp giảm sự phụ thuộc vào dầu mỏ, giảm nhẹ biến động kinh tế khi giá dầu tăng, giảm ô nhiễm môi trường trong khu vực có hơn 50% dân số thế giới cư trú.

Giá dầu thô trung bình trong tám tháng đầu năm 2004 ở Mỹ là 38,67 USD/thùng, tăng hơn 10 USD so với mức trung bình của năm năm trước. Tháng trước, giá dầu thô đạt mức kỷ lục 49,40 USD/thùng. Cơ quan năng lượng quốc tế dự báo: Tới năm 2030, châu Á, đặc biệt là Trung Quốc và Ấn Độ, sẽ cần đầu tư hàng nghìn tỷ USD vào ngành năng lượng. Đa phần số tiền này được sử dụng để xây dựng nhà máy điện nhằm tăng số dân được sử dụng điện lưới quốc gia.

Những dấu hiệu chuyển mình...

Theo các nhà phân tích, năng lượng tái sinh có thể đáp ứng một phần nhu cầu năng lượng nói trên song các chính phủ cần thay đổi cách nghĩ và thông qua các đạo luật để tạo điều kiện thuận lợi cho điện xanh. Trên thực tế, đã có một số dấu hiệu thay đổi.

Trung Quốc, quốc gia tiêu thụ dầu mỏ lớn thứ hai thế giới, chỉ sau Mỹ, có nhiều kế hoạch tham vọng nhằm thúc đẩy năng lượng tái sinh. Những kế hoạch đó bao gồm việc nâng sản lượng điện từ năng lượng gió ở mức 570 megawatt hiện nay lên 20.000 megawatt vào năm 2020, và 50.000 megawatt vào năm 2030. Một megawatt điện có thể cung cấp năng lượng cho 1.000 hộ gia đình. Việc thúc đẩy sử dụng nhiên liệu sinh học nhiều hơn, như dùng hạn rơm, cặn đường và rác nông nghiệp để chạy nhà máy điện, có thể giúp Trung Quốc tiết kiệm 28 triệu tấn than mỗi năm.

Tại Nhật Bản, một trong những nước nhập khẩu dầu hàng đầu thế giới, các nhà sản xuất ô-tô đang đầu tư mạnh vào tế bào nhiên liệu hydro dành cho các loại xe mới. Mặc dù vậy, chi phí vẫn ngoài tầm với của những người có thu nhập trung bình.

Tháng trước, Thủ tướng Ấn Độ kêu gọi các quan chức và giới khoa học tăng tốc phát triển các nguồn năng lượng tái sinh cho quốc gia tiêu thụ dầu lớn thứ ba châu Á này. Để giảm lượng dầu mỏ tiêu thụ, Ấn Độ đã bắt đầu trộn xăng với ethanol cũng như tiến hành thử nghiệm một số loại phương tiện giao thông sử dụng hỗn hợp diesel sinh học chiết xuất từ thực vật và diesel dầu mỏ. Bộ Tài nguyên Năng lượng phi truyền thống của Ấn Độ ước tính nước này có tiềm năng sản xuất 80.000 megawatt điện từ các nguồn tái sinh. Tuy nhiên, hiện nay năng lượng tái sinh ở Ấn Độ mới đạt 5.000 megawatt, 50% trong số này có nguồn gốc từ năng lượng gió.

Pakistan cũng đang hướng sang năng lượng gió và nhiều công ty nước ngoài muốn xây dựng các nhà máy điện kiểu này tại đó. Bangladesh cũng đang nghiên cứu năng lượng gió với hy vọng thúc đẩy việc sử dụng rộng rãi hơn tế bào điện mặt trời tại những ngôi làng xa xôi, hẻo lánh.

Chính phủ Philippines sẽ bắt đầu triển khai nhà máy điện sử dụng đường mía đầu tiên tại nước này vào năm tới. Trong tháng 7/2004, các loại xe của chính phủ Philippines đã bắt đầu sử dụng nhiên liệu pha 1% methyl ester từ dừa. Philippines, quốc gia sản xuất điện địa nhiệt lớn thứ hai thế giới, muốn đầu tư hơn nữa vào ngành này nhằm giảm sự thiếu hụt điện hiện nay.

Indonesia cũng đang đầu tư vào điện địa nhiệt nhằm đáp ứng nhu cầu điện tăng trưởng 10% của nước này. Trong khi đó, Thái Lan muốn thay thế xăng thông thường bằng một hỗn hợp gồm 10% ethanol cũng như tăng mức tiêu thụ ethanol mỗi ngày lên 12 lần vào năm 2006.

... Song vẫn chỉ là muối bỏ bể

Mặc dù các biện pháp nói trên là rất tích cực song các nhà phân tích nói rằng năng lượng tái sinh sẽ chỉ chiếm một phần nhỏ trong cơ cấu năng lượng tổng thể tại châu Á trong tương lai gần. Jeffrey Brown, nhà kinh tế hàng đầu tại Công ty Tư vấn FACTS, cho biết: ''Mọi người nói rất nhiều về năng lượng tái sinh và thay thế khi giá dầu thế giới tăng cao. Tuy nhiên, sự thực là năng lượng tái sinh sẽ vẫn chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong bức tranh năng lượng tổng thể của vài chục năm tới. Đây là thực trạng, thậm chí xét theo những viễn cảnh lạc quan nhất''.

Athena Ronquillo thuộc nhóm Hoà Bình Xanh cho rằng có nhiều lý do dẫn tới tình trạng trên, bao gồm rào cản chi phí và chính sách. Cụ thể là thiếu luật và biện pháp ưu đãi của chính phủ. ''Có nhiều sự trợ cấp ngầm cũng như ưu đãi dành cho các loại năng lượng truyền thống chẳng hạn than và khí. Điều này phá hoại ngầm hơn nữa khả năng cạnh tranh của năng lượng tái sinh.'' - bà nói.

Robert Kleiburg, giám đốc chiến lược tại Shell Renewable, cho rằng ngành điện mặt trời đang tăng trưởng 30% mỗi năm bởi giá thành của công nghệ này đang giảm và nhiều người tại châu Á không thể tiếp cận với mạng lưới điện quốc gia. Như vậy, điện mặt trời đã có thể cạnh tranh với nhiên liệu thông thường. ''Công ty của chúng tôi đầu tư mạnh vào năng lượng gió song chưa hoạt động ở châu Á. Cần phải có tiến trình hoạch định để đánh giá tác động xã hội và môi trường của tuốc-bin gió đối với cộng đồng địa phương. Cũng cần có sự ủng hộ về mặt chính sách dành cho các nhà đầu tư để họ thu được lợi nhuận.'' - Kleiburg nói.

Như vậy, để phát triển năng lượng tái sinh, vấn đề then chốt là giảm chi phí. Muốn vậy, các chính phủ cần đưa ra biện pháp khuyến khích. ''Nếu chúng ta không có công thức tính giá đúng đối với năng lượng tái sinh, ngành này sẽ không thể cất cánh. Hoàn toàn sai lầm khi bán năng lượng tái sinh chỉ dựa trên lý do về môi trường.'' - Tumiwa tại ADN nói. Ông kêu gọi các công ty đầu tư nhiều dự án điện xanh tại châu Á để chứng tỏ với chính phủ các nước rằng công nghệ này là khả thi. Thúc đẩy sử dụng năng lượng mặt trời, gió và nhiên liệu sinh học cũng như xây dựng các nhà máy thuỷ điện nhỏ tại vùng xa xôi hẻo lánh, không thể tiếp cận điện lưới quốc gia, sẽ giúp giảm nhu cầu nhiên liệu hoá thạch và nâng cao tiêu chuẩn sống.

Cornie Huizenga, thuộc ADB, cho rằng tập trung vào năng lượng tái sinh là việc làm tốt song cũng cần quan tâm đầy đủ tới việc làm cho các loại năng lượng truyền thống trở nên sạch hơn. Chẳng hạn, Trung Quốc là nước sản xuất than lớn nhất thế giới. Cơ quan Năng lượng Quốc tế dự báo tới năm 2030, sản lượng than hàng năm của nước này sẽ tăng gấp đôi, đạt 2,3 tỷ tấn. Theo Huizenga, điều quan trọng là các chính phủ tập trung vào việc làm cho việc sản xuất điện từ than trở nên sạch hơn trong khi vẫn chưa thoát khỏi sự phụ thuộc vào nhiên liệu truyền thống.

Minh Sơn (Tổng hợp)